Trước Quốc hội, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, đại dịch Covid-19 tác động nghiêm trọng tới đời sống nhân dân và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian vừa qua. Thực hiện sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, là một trong những cơ quan, bộ ngành vào cuộc trách nhiệm.
“Đầu năm 2020, NHNN đã điều hành lãi suất với 3 lần giảm ở mức 1,5-2%, mức giảm sâu so với các nước trong khu vực”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết.
Theo bà Hồng, ngoài điều hành lãi suất của Ngân hàng trung ương, NHNN đã chỉ đạo và kêu gọi tổ chức tín dụng giảm lãi suất với các khoản vay cũ và mới. Mặt bằng lãi suất cho vay giảm 1,66% so với trước dịch. Tổng mức giảm lãi suất của các tổ chức tín dụng đạt 30.000 tỷ đồng. Việc giảm lãi suất tiếp tục được thực hiện giảm từ này tới cuối năm.
Ngoài ra, các Ngân hàng cũng đang giảm phí khoảng 2.000 tỷ đồng cho các cho khách hàng. Giảm lãi suất giúp giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp và người dân.
Về dư địa để cho tiếp tục hạ lãi suất trong thời gian tới, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết chính sách tiền tệ có 2 nhiệm vụ. Thứ nhất là điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương để kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhưng không chủ quan với lạm phát. Thứ 2 là huyết mạch của nền kinh tế, đảm bảo hệ thống tín dụng hoạt động làm sao cho đảm bảo an toàn, sẵn sàng khả năng chi trả cho người dân.
Thống đốc cho biết NHNN luôn phải đảm bảo 2 mục tiêu này, đảm bảo cân đối lớn của vĩ mô như nợ công, bội chi ngân sách trong xem xét chính sách, công cụ thời gian tới.
“Để xác định dư địa còn giảm lãi suất tiếp hay không, thời gian vừa qua, khi đánh giá thực trạng hoạt động ngân hàng và kinh tế vĩ mô, chúng tôi thấy năm 2021, khả năng đạt chỉ tiêu lạm phát dưới 4% theo mục tiêu của Quốc hội đề ra là có thể. Hết tháng 10, lạm phát mới tăng 1,81%. Tuy nhiên, 2022, rủi ro lạm phát đang có áp lực lớn”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết.
Thứ nhất, kinh tế thế giới dần phục hồi khi các nước tiêm phủ vắc xin. Giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới tăng cao, chẳng hạn như giá xăng dầu tăng 55,2% trong tháng 9 so với năm trước.
“Các nước phát triển đang có mức lạm phát cao lịch sử, chẳng hạn như Mỹ, lạm phát đạt 5,3% trong tháng 9. Với độ mở lớn của nền kinh tế Việt Nam, kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP là 200%, chúng ta có áp lực rủi ro của lạm phát nhập khẩu”, Thống đốc cho biết.
Ngoài ra, các ngân hàng trung ương trên thế giới cũng đang thay đổi chính sách tiền tệ dễ dàng hiện nay. Có 65 lượt tăng lãi suất trên toàn thế giới. Chính vì thế, áp lực lạm phát và áp lực điều hành chính sách tiền tệ lớn.
Thống đốc cũng cho biết nợ xấu trong hệ thống các tổ chức tín dụng gia tăng. Thời gian qua, các ngân hàng giảm lãi bằng chính nguồn lực tài chính của mình chứ không phải tiền ngân sách. Khi nợ xấu gia tăng, họ phải sử dụng nguồn lực tài chính của mình để xử lý nợ xấu.
“Nếu chúng ta để các tổ chức tín dụng bị suy giảm, nó sẽ ảnh hưởng tới khả năng chi trả cho người dân và an toàn hệ thống. Đây là bài học rất lớn từ thời gian trước đây, khi tăng trưởng tín dụng cao và thực hiện các gói hỗ trợ lãi suất trong năm 2010. Nếu không tính toán cẩn thận, có rủi ro là lạm phát trở lại giống như năm 2011, có thời điểm lạm phát lên tới 18%”, bà Hồng cho biết.
“Với NHNN, trong thời gian tới, chúng tôi tiếp tục chỉ đạo toàn bộ hệ thống cố gắng tiết giảm chi phí hoạt động để giảm lãi suất nhưng vẫn phải đảm bảo tỷ lệ an toàn từng hệ thống tín dụng và toàn hệ thống để tránh tác động lan truyền. Tiếp tục phối hợp với bộ ngành để tính toán các gói hỗ trợ lãi suất với quy mô, phạm vi và liều lượng hợp lý trên cơ sở đảm bảo kinh tế vĩ mô, phòng ngừa rủi ro lạm phát, an toàn hoạt động với hệ thống”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết.