Ngày 16/12/2020, Bộ Tài chính Mỹ đã xác định Việt Nam và Thụy Sĩ là những quốc gia thao túng tiền tệ cùng với 10 nền kinh tế ( Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Ý, Singapore, Malaysia, Đài Loan, Thái Lan và Ấn Độ) thuộc diện theo dõi với cáo buộc rằng Việt Nam đáp ứng cả 3 tiêu chí về thặng dư thương mại song phương với Mỹ, thặng dư cán cân vãng lai và mua ròng ngoại tệ. Đây là lần đầu tiên, Mỹ gắn mác “thao túng tiền tệ” đối với Việt Nam. Nhiều ý kiến cho rằng quyết định này có tính đơn phương, chủ yếu vì vấn đề thương mại chứ không chỉ là vấn đề tiền tệ.
Xoay quanh vấn đề thời sự này, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV đã đưa ra báo cáo nhìn nhận lại các tiêu chí đi đến kết luận thao túng tiền tệ, đánh giá khách quan cơ sở nhận định từ phía Bộ Tài chính Mỹ, nêu lộ trình tiếp theo và gợi ý chính sách đối với Việt Nam.
Chúng tôi xin đăng tải báo cáo để quý độc giả cùng theo dõi.
Khái quát về 3 tiêu chí được Mỹ sử dụng để cáo buộc Việt Nam có hành vi “thao túng tiền tệ”
Theo Đạo luật Cạnh tranh và Thương mại năm 1988 và Đạo luật Thuận lợi hóa và Thực thi Thương mại năm 2015, định kỳ bán niên, Bộ Tài chính Mỹ công bố Báo cáo về Chính sách kinh tế và Ngoại hối của các Đối tác Thương mại lớn của Mỹ. Nếu bất kỳ đối tác thương mại nào có thặng dư thương mại lớn với Mỹ và cán cân vãng lai thặng dư lớn, Mỹ sẽ tiến hành phân tích sâu để xem xét quốc gia này có thao túng tiền tệ hay không. Các “ngưỡng” tiêu chí cụ thể sẽ được rà soát định kỳ, tùy thuộc vào chính sách kinh tế, đối ngoại của Mỹ từng thời kỳ. Nếu một quốc gia chạm tất cả các “ngưỡng”, Mỹ sẽ gán mác thao túng tiền tệ. Khi đó, Mỹ sẽ có những biện pháp để can thiệp, có thể là đàm phán để các quốc gia điều chỉnh chính sách, thậm chí đưa ra các biện pháp trừng phạt đối với quốc gia đó nếu không đạt được thỏa thuận và các cam kết không có tiến triển.
Từ kỳ rà soát tháng 5/2019, Mỹ đã có một số thay đổi về tiêu chí thao túng tiền tệ. Ở vòng kiểm duyệt đầu tiên, Mỹ sẽ xem xét các đối tác thương mại chính có tổng kim ngạch thương mại hàng hóa song phương trên 40 tỷ USD (thay cho tiêu chí cũ là xem xét 12 đối tác thương mại lớn nhất). Ở vòng thứ hai, Mỹ vẫn đưa ra 3 tiêu chí (ngưỡng) đánh giá khả năng một quốc gia thao túng tiền tệ, cụ thể: (i) Có thặng dư thương mại song phương với Mỹ trên 20 tỷ USD; (ii) Thặng dư cán cân tài khoản vãng lai tương đương 2% GDP (trước đây là 3%); và (iii) Can thiệp 1 chiều (mua hoặc bán ròng) và kéo dài trên thị trường ngoại tệ trong liên tục 6 tháng trên giai đoạn 12 tháng, với tổng lượng mua ròng trên 2% GDP.
Về việc gắn mác thao túng tiền tệ đối với Việt Nam
Đối với Việt Nam, trong các báo cáo bán niên (từ tháng 5/2019 đến tháng 6/2020), Việt Nam đã 2 lần bị Bộ Tài chính Mỹ đưa vào danh sách giám sát. Đến ngày 16/12/2020 (tại Báo cáo tháng 12/2020 cho đợt rà soát từ tháng 7/2019 đến tháng 6/2020), Bộ Tài chính Mỹ đã xác định Việt Nam là nước thao túng tiền tệ bởi cho rằng Việt Nam đã đạt và vượt ngưỡng cả 3 tiêu chí nêu trên.
Đánh giá khách quan cơ sở nhận định của Bộ Tài chính Mỹ:
TS. Cấn Văn Lực và Nhóm chuyên gia Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV cho rằng, việc gắn mác Việt Nam thao túng tiền tệ là một việc làm mang tính chủ quan, đơn phương từ phía Bộ Tài chính Mỹ, chưa nhìn nhận đa chiều và chưa xét đến đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam cũng như những khuyến cáo của các tổ chức quốc tế (như WB, IMF) đối với Việt Nam, một nền kinh tế đang phát triển nhanh, độ mở cao và cần thiết phải có các công cụ (phù hợp thông lệ quốc tế) cho phát triển kinh tế bền vững, an toàn, có khả năng chống chịu với những cú sốc từ bên ngoài. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc điều hành tỷ giá những năm qua của NHNN trong khuôn khổ chính sách tiền tệ chung nhằm thực hiện mục tiêu nhất quán là kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, không nhằm tạo lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế không công bằng. Kể từ năm 2016 đến nay, NHNN đã thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá theo biến động của rổ tiền tệ các nước có quan hệ kinh tế lớn với Việt Nam. Chính sách điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt cùng với chính sách tài khóa thận trọng (kiểm soát nợ cộng và thâm hụt ngân sách) đã giúp ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020. Trái với nhận định của Bộ tài chính Mỹ, thực tế trong 3 năm (2017-2019), giá trị thực của VND theo tính toán của Nhóm chuyên gia thì tăng khoảng 2,6%. Theo đó, cán cân thương mại của Việt Nam với Mỹ có thể bị tác động tiêu cực do đồng VND tăng giá so với USD trong 3 năm 2017-2019, chứ không hẳn là tạo lợi thế xuất khẩu cho Việt Nam. Vì vậy, việc Bộ Tài chính Mỹ khẳng định đồng VND bị định giá thấp có tạo ra lợi thế xuất khẩu cho Việt nam cần phải được xem xét kỹ lưỡng và chính xác hơn.
Thứ hai, thặng dư thương mại song phương với Mỹ và thặng dư cán cân vãng lai là kết quả của rất nhiều yếu tố liên quan tới đặc thù của nền kinh tế Việt Nam. VND giảm giá không hỗ trợ nhiều cho xuất khẩu (từ đó hỗ trợ cán cân thương mại thặng dư) do đặc thù cơ cấu nền kinh tế Việt Nam. Đó là xuất khẩu nhiều thì cũng đồng nghĩa với nhập khẩu nhiều. Điều này là do hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam do khối doanh nghiệp nước ngoài (FDI) chi phối. Khối này chiếm 70% kim ngạch xuất khẩu, 59% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2017-2019 (theo số liệu tổng hợp từ Tổng cục Thống kê Việt Nam). Theo đó, để sản xuất hàng xuất khẩu, do công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn yếu, nên khối doanh nghiệp FDI vẫn phải nhập khẩu nguyên phụ liệu đầu vào cho dù tỷ giá VND được điều chỉnh tăng hay giảm.
Thứ ba, việc NHNN mua ngoại tệ can thiệp thời gian qua nhằm đảm bảo hoạt động thông suốt của thị trường ngoại tệ trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ dồi dào, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời tăng dự trữ ngoại hối (vốn ở mức thấp) so với các nước trong khu vực để tăng cường an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia, chứ không phải là tạo lợi thế thương mại. Theo IMF, dự trữ ngoại hối của Việt Nam cuối năm 2019 chỉ ở mức tương đương 3,5 tháng nhập khẩu (cao hơn một chút so với mức khuyến nghị tối thiểu 3 tháng nhập khẩu của IMF), thấp hơn nhiều so với mức 5 tháng nhập khẩu của Singapore, 8 tháng của Philippines, Hàn Quốc hay 9 tháng của Thái Lan và 14 tháng của Trung Quốc.
Ngoài ra, một số Tổ chức quốc tế uy tín, trong đó có Viện Nghiên cứu kinh tế Quốc tế Peterson (PIIE, hay còn gọi là Viện Peterson) thường xuyên nghiên cứu về vấn đề cáo buộc thao túng tiền tệ của Mỹ với các nước. Ngày 16/12/2020, Viện Peterson đã nhận định rằng cáo buộc từ Bộ Tài chính Mỹ rằng Việt Nam thao túng tiền tệ là chưa thỏa đáng và không phù hợp với điều kiện của Việt Nam; đồng thời nhấn mạnh rằng Bộ Tài chính Mỹ đã có những sai sót khi đưa ra các tiêu chí để xác định một nền kinh tế là thao túng tiền tệ .
Theo đó, Viện Peterson nhận định: (i) Các quốc gia có nhu cầu hợp pháp về một lượng dự trữ ngoại hối vừa phải để chống chịu với các cú sốc bất ngờ. Trong số 2 quốc gia bị gắn mác thao túng tiền tệ và 10 nền kinh tế bị đưa vào danh sách theo dõi, tất cả các nước đều vượt tiêu chí dự trữ ngoại hối với biên độ rộng, trừ Việt Nam; (ii) việc sử dụng tiêu chí có thặng dư cán cân thương mại song phương với Mỹ như là tiêu chí chính để xác định một nền kinh tế là thao túng tiền tệ là không có cơ sở trong kinh tế học, nhất là trong bối cảnh xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ, các nền kinh tế tham gia sâu và đa dạng trong các chuỗi giá trị toàn cầu (thí dụ, theo Viện Peterson, Singapore nhập khẩu nhiều từ Mỹ khiến Mỹ có thặng dư thương mại với Singapore, nhưng thực tế là hàng hóa nhập khẩu này lại được xuất đi Trung Quốc và các nước Châu Á khác, làm nguyên liệu đầu vào cho hàng xuất khẩu sang Mỹ; như vậy là Singapore đóng góp đáng kể vào thâm hụt thương mại của Mỹ với các nước khác); (iii) sẽ hợp lý hơn khi chỉ xem xét việc thao túng tiền tệ đối với các quốc gia có thu nhập cao hoặc thu nhập trung bình cao; trong khi đó Việt Nam là quốc gia có thu nhập trung bình thấp nên không phù hợp để đánh giá thao túng tiền tệ.
Qua các vụ việc liên quan đến thao túng tiền tệ mà Mỹ cáo buộc các nước, có thể thấy rằng, các tiêu chí đánh giá thao túng tiền tệ mà Mỹ áp dụng vẫn chưa nhận được sự đồng thuận của các đối tác thương mại, sự thừa nhận từ các tổ chức quốc tế và cộng đồng chuyên gia cũng như các Viện Nghiên cứu uy tín trên thế giới.
Lộ trình tiếp theo
Theo Đạo luật xúc tiến và tăng cường thương mại năm 2015, Bộ Tài chính Mỹ sẽ đệ trình báo cáo lên quốc hội Mỹ, tiến hành các cuộc thương lượng giữa cơ quan chức năng hai bên (Việt Nam và Mỹ) để thống nhất và thực hiện các giải pháp chung nhằm cân bằng hơn cán cân thương mại và một số yêu sách cụ thể khác. Nếu hai bên không tìm được tiếng nói chung, phía Mỹ mới có thể tìm đến các biện pháp cứng rắn hơn. Nhóm chuyên gia cho rằng khả năng này khó xảy ra trong ngắn hạn; nhưng Việt Nam cũng không thể chủ quan mà cần có kịch bản ứng phó.
Đề xuất một số giải pháp ứng phó
Trong bối cảnh diễn biến kinh tế thế giới, cấu trúc thương mại toàn cầu còn nhiều bất định, việc bị Bộ Tài chính Mỹ chính thức đưa vào danh sách các nước thao túng tiền tệ sẽ có những tác động bất lợi nhất định tới quan hệ thương mại, đầu tư Việt – Mỹ, cũng như tới nền kinh tế Việt Nam. Do vậy, Nhóm chuyên gia đề xuất 5 giải pháp cơ bản như sau:
Một là, các cơ quan chức năng Việt Nam cần bình tĩnh, thận trọng, phối hợp tốt, chủ động và tích cực trao đổi thông tin với phía Mỹ. Theo đó, NHNN đã lên tiếng và sẽ phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan để trao đổi, làm việc về các vấn đề mà phía Mỹ quan tâm trên tinh thần hợp tác, hai bên cùng có lợi, tiến đến quan hệ thương mại hài hòa, công bằng theo Kế hoạch hành động hợp tác giữa hai nước.
Hai là, đẩy nhanh tiến độ cân bằng hơn cán cân thương mại với Mỹ do vấn đề cốt lõi mà Mỹ quan tâm là vấn đề giảm thâm hụt thương mại với các nước (trong đó có Việt Nam) hơn chỉ là vấn đề tiền tệ thuần túy. Theo đó, Việt Nam cần tăng cường nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ từ Mỹ, đặc biệt là nông sản, sản phẩm năng lượng, vận tải, máy móc, thiết bị công nghệ cao, thiết bị y tế, vaccine phòng chống Covid-19…v.v.
Ba là, các cơ quan chức năng, địa phương cần tăng cường, quyết liệt, phối hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi đội lốt thương mại, đội lốt đầu tư để lợi dụng những ưu đãi từ hợp tác Việt – Mỹ và các Hiệp định FTA khác cũng như hành vi trốn thuế.
Bốn là, các cơ quan chức năng cần phối hợp chặt chẽ, đẩy nhanh tiến độ, giải quyết hiệu quả các vấn đề khác mà phía Mỹ quan tâm (như sở hữu trí tuệ, an ninh mạng, thanh toán điện tử…).
Cuối cùng, các cơ quan chức năng và doanh nghiệp cần chủ động xây dựng kịch bản ứng phó với các tình huống có thể xảy ra nhằm có giải pháp chủ động, linh hoạt và kịp thời, giảm thiểu tác động tiêu cực cũng như duy trì mối quan hệ kinh tế-thương mại ổn định và bền vững với Mỹ.
(TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV)