Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết vừa nhận được phản ảnh của các tổ chức tín dụng (TCTD) hội viên về việc Tổng cục Thuế – Bộ Tài chính ban hành Công văn số 1606/TCT-DNL ngày 22/4/2020 về thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với dịch vụ thư tín dụng (L/C) của các tổ chức tín dụng (TCTD) gửi Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó nêu:
Căn cứ quy định tại Luật các TCTD năm 2010 và các quy định pháp luật liên quan,”… kể từ ngày 1/1/2011, khi Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 có hiệu lực thi hành thì thư tín dụng (L/C) là hình thức cung ứng dịch vụ thanh toán, do vậy sẽ không thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT theo quy định” và yêu cầu Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rà soát, hướng dẫn các TCTD trên địa bàn quản lý có phát sinh hoạt động cung cấp dịch vụ thư tín dụng (L/C) thì thực hiện kê khai, nộp thuế GTGT theo đúng quy định.
Thực hiện Công văn nêu trên, hiện các Cơ quan thuế địa phương đang yêu cầu các TCTD rà soát, kê khai và nộp thuế GTGT đối với các khoản thu từ thư tín dụng phát sinh từ ngày 01/01/2011 đến nay.
Hiệp hội Ngân hàng cho biết, trên cơ sở nghiên cứu thông lệ quốc tế về bản chất nghiệp vụ L/C, các quy định pháp luật liên quan và ý kiến đề nghị của các TCTD hội viên, Hiệp hội Ngân hàng có ý kiến và kiến nghị về vấn đề này như sau:
Thứ nhất về Bản chất nghiệp vụ thư tín dụng: Theo các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về nghiệp vụ thư tín dụng chứng từ và thông lệ quốc tế (Bộ quy tắc về thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ – UCP 600) thì: Thư tín dụng, trong đó ngân hàng đóng vai trò là ngân hàng phát hành/xác nhận L/C, về bản chất là cam kết/ bảo lãnh thanh toán, như đối với thư tín dụng nhập khẩu (bao gồm cả thư tín dụng dự phòng).
Trong trường hợp này, ngân hàng cung cấp dịch vụ bảo lãnh thanh toán và được luật pháp coi là hình thức cấp tín dụng (Khoản 14 Điều 4 và Khoản 3 Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng). Ngân hàng Nhà nước cũng đã yêu cầu các TCTD phải phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro cho các cam kết này (Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài) và tính vào giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn như các loại cấp tín dụng khác (Thông tư số 22/2019/TT-NHNN ngày 25/11/2019 về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài).
Cho nên, theo Hiệp hội ngân hàng, các khoản phí liên quan trực tiếp đến việc phát hành, xác nhận, thông báo L/C để bảo lãnh thanh toán cho khách hàng là phí thu trên hoạt động cấp tín dụng và không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo quy định của Luật thuế GTGT, các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế.
Về Thực tế áp dụng thuế GTGT đối với thư tín dụng: Lâu nay, căn cứ Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thuế GTGT (Thông tư số 219/2013/TT-BTC, Công văn số 11754/BTC-CST ngày 06/9/2010 của Bộ Tài chính, Công văn số 4520/TCT-DNL ngày 4/10/2017 của Tổng cục Thuế…), các TCTD đã và đang thực hiện đúng chính sách thuế GTGT trên cơ sở bóc tách rõ bản chất của các khâu trong dịch vụ là dịch vụ thanh toán hay hoạt động cấp tín dụng để xác định các loại phí liên quan đến thư tín dụng thuộc hay không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT.
Về Tác động của Công văn số 1606/TCT-DNL và động thái của các Cơ quan thuế địa phương, theo Hiệp hội Ngân hàng, những động thái của các Cơ quan thuế địa phương căn cứ Công văn số 1606/TCT-DNL của Tổng cục Thuế gây lo ngại cho các TCTD trong việc diễn giải và áp dụng thực hiện pháp luật của các cơ quan quản lý.
Việc áp dụng thu thuế GTGT không đúng bản chất của thư tín dụng, đặt vấn đề truy thu thuế, phạt kê khai sai và tiền chậm nộp thuế GTGT đối với các khoản thu liên quan đến thư tín dụng phát sinh từ đầu năm 2011 đến nay sẽ gây tác động xáo trộn lớn, ảnh hưởng xấu tới hoạt động của các ngân hàng thương mại, nhất là trong bối cảnh phải tập trung hỗ trợ chống dịch bệnh Covid-19 hiện nay.
Thuế GTGT là thuế gián thu, trường hợp phải nộp bổ sung thuế GTGT dịch vụ thư tín dụng đã phát sinh thì ngân hàng phải thu lại từ khách hàng. Trong lúc nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, việc đồng loạt truy thu tiền thuế GTGT là không khả thi, ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng và các doanh nghiệp liên quan. Ngoài ra, việc yêu cầu “hồi tố” sẽ làm phát sinh một loạt chi phí xã hội do phải điều chỉnh hóa đơn, số liệu về kê khai, nộp thuế, khấu trừ thuế…
Để đảm bảo việc thu thuế GTGT đối với nghiệp vụ thư tín dụng của các TCTD thực hiện đúng quy định pháp luật, đúng bản chất nghiệp vụ, tránh mâu thuẫn, bất cập trong thực hiện quy định pháp luật về thuế GTGT và pháp luật chuyên ngành ngân hàng đối với nghiệp vụ thư tín dụng L/C, tạo điều kiện cho các TCTD và các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, Hiệp hội Ngân hàng kiến nghị:
Bộ Tài chính chỉ đạo Tổng cục Thuế hướng dẫn các Cục Thuế địa phương không áp dụng thuế GTGT đối với nghiệp vụ phát hành thư tín dụng và các khoản phí có liên quan đến quy trình cấp tín dụng thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT theo đúng tinh thần của Luật các TCTD 2010, Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thi hành. Không yêu cầu “hồi tố”, bắt các TCTD rà soát, kê khai và nộp thuế GTGT đối với khoản thu từ nghiệp vụ thư tín dụng phát sinh từ năm 2011 đến nay; Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan làm rõ các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật để việc hiểu và áp dụng thuế GTGT đối với nghiệp vụ thư tín dụng đúng bản chất, thống nhất, không gây khó khăn trong hoạt động của các TCTD.